Phạm Chí Dũng | VOA
Tháng
5/2017, chỉ nửa năm sau việc gạ gẫm cho tỉnh Quảng Ninh vay 300 triệu USD để
làm cao tốc Vân Đồn - Móng Cái nhưng rốt cuộc đã bị tỉnh này từ chối sau khi bị
dư luận phản ứng mạnh mẽ, Trung Quốc lại đang dụ dỗ một địa phương khác biên giới
phía Bắc là chính quyền tỉnh Cao Bằng, cũng với món vay 300 triệu USD để làm đường
cao tốc từ Đồng Đăng, Lạng Sơn đến cửa khẩu Trà Lĩnh, Cao Bằng.
Vẫn
là 300 triệu đô la!
Không
hề rút được bài học kinh nghiệm nào từ Quảng Ninh, chính quyền Cao Bằng vội vã
đề xuất Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao các bộ tham mưu vay 300 triệu USD từ
Trung Quốc. Cao Bằng còn “khôn lanh” đến mức “chỉ điểm” cho Thủ tướng rằng Bộ
Giao thông Vận tải là địa chỉ cần đứng ra vay Trung Quốc.
Một số dân oan tập trung tại nhà một người dân hôm 19/3 để ủng hộ lời kêu gọi biểu tình phản đối Formosa và chống hiểm hoạ Trung Quốc của LM Nguyễn Văn Lý. Hình minh họa. |
Nhưng
Bộ Giao thông Vận tải lại là cơ quan phải hứng chịu mũi dùi của dư luận xã hội
khi quá nhiệt tình đề xuất Chính phủ vay 300 triệu USD cho tỉnh Quảng Ninh vào
cuối năm ngoái. Vào lần này, hẳn đã “rút kinh nghiệm sâu sắc”, Bộ giao thông Vận
tải đã phản hồi chính quyền Cao Bằng rằng bộ này không phải là đối tượng được
vay lại, nên đề xuất Thủ tướng để UBND tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn đảm nhiệm
việc vay.
Vậy
thực chất của những món tiền cho vay mà Trung Quốc nhiệt tình gợi ý là gì?
Vào
năm 2016, một chuyên gia phản biện độc lập là ông Lê Đăng Doanh đã lôi toạc thực
chất nguồn gốc rất đặc biệt của số vay 300 triệu USD trên: số tiền này được lấy
ra từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc, chứ không phải là hỗ trợ xuất nhập
khẩu. Nghĩa là điều kiện đi kèm của khoản vay này là Việt Nam phải nhập khẩu
hàng hoá của Trung Quốc.
Ông
Lê Đăng Doanh giải thích: “Trung Quốc hiện nay đang thừa quá nhiều thép và xi
măng. Năng suất hằng năm của Trung Quốc đối với mặt hàng thép là 1.200 triệu tấn,
Trung Quốc chỉ dùng 600 triệu tấn, số dư còn lại đang tìm cách đẩy sang liên minh
châu Âu, sang Mỹ cũng như các nước khác… và đang bị các nước chống đối kịch liệt.
Cho nên, bây giờ Trung Quốc dùng miếng “mồi” 300 triệu USD này. Nếu Việt Nam nhận
lời vay vốn thì Việt Nam phải nhập toàn bộ thép, xi măng, thiết kế thi công,
công nhân lẫn giám sát của Trung Quốc”.
Không
cần chính phủ bảo lãnh?
Lại
có thêm một dấu hiệu khác rất đáng nghi ngờ. Tháng 3/2017, Jin LiQun - Chủ tịch
Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB) - một định chế do Trung Quốc khởi
xướng mới đây đã cùng đoàn công tác của AIIB đến làm việc với Bộ Tài chính Việt
Nam với một hứa hẹn rất hấp dẫn: AIIB sẵn sàng hỗ trợ các hoạt động đầu tư cho
khu vực tư nhân cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng mà không cần bảo lãnh Chính phủ
nhằm giảm áp lực nợ công.
Có
thể cho rằng đây là lần đầu tiên mà AIIB, cũng như các ngân hàng Trung Quốc, đề
nghị với phía Việt Nam về cơ chế cho vay “thoáng” đến như thế.
Trong
khi đó, hầu hết các chủ nợ lớn nhất của Việt nam như Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền
tệ quốc tế, Ngân hàng phát triển Á châu đã “đóng cửa” đối với Việt Nam về các
khoản vay lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn. Từ tháng 7/2017, Việt Nam sẽ phải
vay với lãi suất thị trường gấp 3 lần mức lãi suất ưu đãi được vay trước đó,
cùng thời gian ân hạn giảm đi một nửa. Nhưng điều kiện cần để doanh nghiệp Việt
Nam được vay là phải có bảo lãnh của chính phủ.
Nhưng
vì sao ngân hàng Trung Quốc dám cho Việt Nam vay “không cần chính phủ bảo
lãnh”?
Sau
một thời gian dài ồ ạt vay mượn quốc tế và trong nước, đến nay nợ công của Việt
Nam đã lên đến 210% GDP, tương đương 431 tỷ USD - theo một phân tích mới nhất của
Tiến sĩ Vũ Quang Việt. Trong tình cảnh thê thảm ấy, vào năm 2017 chính phủ của
ông Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố chỉ bảo lãnh đúng 1 tỷ USD cho các doanh nghiệp,
giảm hẳn so với mức bảo lãnh 1,5 tỷ USD vào năm 2016, 2,5 tỷ USD vào năm 2015
và hơn 6 tỷ USD vào năm 2014.
Những
lý do trên đã khiến nhiều doanh nghiệp và chính quyền địa phương bắt đầu ngó
ngàng sang “cửa Trung Quốc”…
Nhưng
cho tới nay, đã có quá nhiều dẫn chứng rất cụ thể về hậu quả quá trầm trọng từ
các dự án do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm.
“Đòn
bẩy” của Trung Quốc là ở chỗ ban đầu doanh nghiệp nước này đưa ra thiết kế rất
thấp tuy nhiên, sau khi thực hiện thì giá cứ bị “đẩy lên”, dần dần giá chào rẻ
ban đầu sẽ trở nên “rất đắt”. Dự án đường cao tốc trên cao Cát Linh - Hà Đông
là bài học nhãn tiền, khiến đội vốn lên 100%, kéo dài thời gian từ năm này qua
năm khác.
Một
trong những mánh khóe rất phổ cập của nhà thầu Trung Quốc là bỏ thầu với giá
khá thấp, nhưng sau đó tống công nghệ lạc hậu vào dự án, đồng thời đòi tăng chi
phí bổ sung trong quá trình thực hiện dự án… để bù đắp “thiệt hại”.
Cái
bẫy “Một vành đai, một con đường”
Cho
vay tín dụng lại luôn là một phương thức khống chế và từ đó dẫn đến thao túng
kinh tế và cả chính trị của Trung Quốc đối với nhiều quốc gia.
Một
phân tích của tác giả Brahma Chellaney trên trang Project Syndicate ngày
23/01/2017, do Tạp chí Nghiên cứu quốc tế dịch và đăng tải đã
làm rõ: Thông qua sáng kiến “Một vành đai, một con đường” trị giá 1 nghìn tỷ
USD, Trung Quốc đang hỗ trợ xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước đang
phát triển nằm ở các vị trí chiến lược, thường là bằng cách cung cấp các khoản
vay khổng lồ cho chính phủ các nước này. Từ đó, các nước ngày càng sa vào bẫy nợ
khiến họ trở nên dễ bị chi phối trước ảnh hưởng của Trung Quốc.
Gánh
nặng nợ nần đè lên vai các nước nhỏ càng lớn thì ảnh hưởng của Trung Quốc với
các nước đó càng tăng. Sri Lanka là một trường hợp điển hình nhất. Trung Quốc
đã nhanh chóng trở thành nhà đầu tư và là chủ nợ hàng đầu của Sri Lanka, và là
đối tác thương mại lớn thứ hai, qua đó có được ảnh hưởng ngoại giao lớn đối với
nước này.
Còn
nhiều ví dụ khác như Nepal, Venezuela, Lào, Campuchia… mà Trung Quốc đã từng bước
khống chế được qua cơ chế cho vay mượn tín dụng.
Trung
Quốc hiện đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy Campuchia, Lào, Myanmar và
Thái Lan ngăn chặn một ASEAN đoàn kết chống lại việc Trung Quốc theo đuổi một
cách hung hăng các yêu sách lãnh thổ trên Biển Đông.
Trung
Quốc hiện đang đi thêm các bước để đảm bảo các nước này sẽ không thể thoát khỏi
các món nợ của mình. Để đổi lấy việc điều chỉnh thời hạn trả nợ, Trung Quốc yêu
cầu các nước giao cho mình hợp đồng xây dựng các dự án bổ sung, qua đó biến khủng
hoảng nợ của họ kéo dài mãi. Tháng 10/2016, Trung Quốc đã xóa khoản nợ 90 triệu
USD cho Campuchia chỉ nhằm giành thêm các hợp đồng lớn mới.
Một
số nền kinh tế đang phát triển đang rất hối tiếc về quyết định nhận các khoản
vay của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình đã bùng phát do tình trạng thất nghiệp
tràn lan, được cho là do việc bán phá giá hàng hóa Trung Quốc, giết chết ngành
sản xuất trong nước. Các cuộc biểu tình càng trở nên trầm trọng hơn do việc
Trung Quốc đưa lao động Trung Quốc đến làm việc tại các dự án của mình.
Các
chính phủ mới ở một số nước, từ Nigeria đến Sri Lanka, đã đề nghị điều tra các
nghi án hối lộ của Trung Quốc với các nhà lãnh đạo tiền nhiệm…
Kẻ
nào “cõng rắn cắn gà nhà”?
Từ
đầu năm 2016 đến nay, có những dấu hiệu đáng lo ngại là Trung Quốc đang tăng cường
đầu tư vào các dự án ở Việt Nam để khống chế dự án để từ đó mở rộng thao túng
kinh tế Việt Nam lẫn chiến thuật “lấn đất”.
Theo
những số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ kế hoạch và Đầu tư), đến cuối tháng
4/2017, Trung Quốc tiếp tục là một trong 4 nhà đầu tư nước ngoài lớn của Việt
Nam, đặc biệt số dự án góp mua và chờ mua doanh nghiệ Việt khi lên sàn của đối
tác này đang tăng rất mạnh. Lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của các doanh
nghiệp, nhà đầu tư Trung Quốc đạt hơn 900 triệu USD, tăng hơn 530 triệu USD so
với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ tăng vốn đạt trên 140%.
Đối
chiếu với cái bẫy “Một vành đai, một con đường” sẽ dễ dàng nhận ra Việt Nam
không hề là ngoại lệ trong số nhiều nước đang phát triển phải chấp nhận các khoản
vay của Trung Quốc. Không được các nhà đầu tư tổ chức quan tâm, Việt Nam và một
số nước đã không tìm được nguồn vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn. Thế nên
khi Trung Quốc xuất hiện, hứa hẹn các khoản đầu tư rộng lượng với tín dụng dễ
dàng, các nước này đều nhận lời. Chỉ sau này thì mọi thứ mới trở nên rõ ràng
hơn rằng mục đích thực sự của Trung Quốc chính là thâm nhập thương mại và gây ảnh
hưởng chiến lược, nhưng khi đó thì mọi chuyện đã quá trễ, và các nước này bị
dính vào một vòng luẩn quẩn với các món nợ từ Trung Quốc.
Trong
quan hệ Việt - Trung, nếu lấy mốc từ năm 2001 theo một thống kê của Việt Nam,
thì từ năm đó đến năm 2016, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc với quy mô không
ngừng tăng qua các năm với tốc độ chóng mặt, từ 200 triệu đô la Mỹ năm 2001 lên
gần 37 tỉ đô la Mỹ năm 2016, tức tăng đến 180 lần (chưa kể con số nhập siêu 20
tỷ USD từ Trung Quốc qua đường tiểu ngạch).
Trong
suốt giai đoạn 2003-2013, Trung Quốc đã thống trị nhóm sản phẩm ở 4 trong 5
ngành chính là thủy điện, nhiệt điện, xi măng, bauxite, và sàng tuyển than tại
Việt Nam. Hệ quả là mỗi năm, Việt Nam phải nai lưng nhập khẩu đến 10 tỉ đô la Mỹ
cho nhóm sản phẩm máy và thiết bị đồng bộ, trong khi tỉ lệ nội địa hóa là cực kỳ
thấp.
Nhiều
dự án vốn đầu tư phải vay từ Trung Quốc, từ đó tạo ưu thế cho Trung Quốc đặt ra
các điều kiện như phải mua thiết bị từ chính thị trường của họ. Thậm chí nếu
phía Trung Quốc không “chủ động gợi ý” thì một số doanh nghiệp Việt Nam cũng
quá hiểu là doanh nghiệp Trung Quốc có chế độ bao thư phong bì thuộc loại nặng
nhất thế giới.
Chính
phủ thời Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và Bộ Công thương thời Bộ trưởng Vũ Huy
Hoàng là hai địa chỉ đặc biệt, trong số nhiều bộ ngành, chính quyền địa phương
và doanh nghiệp, phải bị xem là “tội đồ” cho ý thức hệ “cõng rắn cắn gà nhà”.
Giờ
đây Việt Nam không chỉ bị ảnh hưởng chính trị nặng nề từ “Thiên triều”, mà nền
kinh tế đang lệ thuộc chặt chẽ vào Trung Quốc sẽ hết sức chật vật nếu muốn
thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người láng giềng khổng lồ tham lam, nhiều thủ đoạn
ở phương Bắc.
Không
còn cách nào khác, muốn chống ngoại xâm thì việc đầu tiên phải là chống nội
xâm. Không thể thoát Trung nếu không giải quyết bài toán thanh loại những kẻ
“cõng rắn cắn gà nhà”.
Ngay
trước mắt, một tỉnh nghèo như Cao Bằng thì lấy đâu ra ngoại tệ để trả món vay
300 triệu USD? Hay sẽ cam tâm chấp nhận những điều kiện mang tính áp đặt của
Trung Quốc, làm tiền đề cho những toan tính của Bắc Kinh tạo thế khống chế địa
hình địa vật quân sự ở khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam?
Nguồn:
VOA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét