Thứ Hai, 11 tháng 9, 2017

Trung Quốc lộ điểm yếu sau căng thẳng với Ấn Độ



 Thành Minh   
  • Nếu không muốn chiến tranh hoặc lo ngại nguy cơ thất bại, Trung Quốc không nên quá mạnh miệng hoặc có những hành động đe dọa phản tác dụng.
Lộ bài đe dọa
Sau vụ căng thẳng biên giới với Ấn Độ vừa qua, Trung Quốc vẫn tiếp tục thể hiện thái độ cứng rắn qua những tuyên bố ngoại giao. “Hỏa lực miệng” dường như đã trở thành sản phẩm “độc quyền” của Bắc Kinh. Tuy nhiên, chính điều này đang khiến Trung Quốc bộ lộ điểm yếu chết người của mình.
Phương thức đe dọa quân sự của Trung Quốc đối với Ấn Độ xung quanh vụ Doklam bị đặt câu hỏi về tính hiệu quả thực sự. Khi căng thẳng biên giới bùng phát, Trung Quốc ngay lập tức triển khai quân đội để uy hiếp đối phương. Tuy nhiên, ngay giới phân tích Trung Quốc cũng phải thừa nhận vào thời điểm mang tính then chốt cần có hành động quân sự để nâng cao hiệu quả uy hiếp thì Bắc Kinh lại do dự và “án binh bất động”.

 Truyền thông Trung Quốc liên tục đưa tin về các hoạt động quân sự rầm rộ của
nước này giữa lúc căng thẳng biên giới với Ấn Độ

Tờ Liên hợp buổi sáng của Singapore dẫn lời nhà phân tích Đặng Duật Văn của Trung Quốc cho biết đe dọa là phương thức thường được các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc, sử dụng để khuất phục và buộc đối phương phải thỏa hiệp. Hàm ý của cụm từ “đe dọa” là việc cường điệu hóa sức mạnh của bản thân, kết hợp với việc đẩy sự việc phát triển đến cực điểm nhằm tạo áp lực tâm lý lớn nhất cho đối phương, buộc đối phương phải chấp nhận khuất phục hoặc thỏa hiệp để thực hiện mục đích “không đánh mà thắng”.
Theo nhà phân tích này, nói cách khác, “đe dọa” là làm ra bộ chuẩn bị chiến tranh, thậm chí chiến tranh lớn để đối thủ cảm nhận và hình dung ra tổn thất mình sẽ phải gánh chịu lớn đến mức nào nếu không khuất phục và thỏa hiệp. Do vậy, để đe dọa một cách hiệu quả, các bên liên quan không chỉ thông qua lời nói mà phải bằng các hành động rõ ràng và cụ thể.
Biện pháp đe dọa quân sự, nhất là đe dọa hạt nhân, cũng là phương thức được các nước thường xuyên sử dụng. Một ví dụ được nêu ra là trường hợp của Triều Tiên. Bình Nhưỡng trước đây thường xuyên đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân để san bằng Hàn Quốc, còn hiện nay đã phát triển tên lửa đạn đạo để đe dọa Mỹ.

Trung Quốc duyệt binh rầm rộ tại Nội Mông ngày 30/7
Ngoài việc liên tục thử tên lửa và vũ khí hạt nhân, Triều Tiên còn chủ động đẩy tình hình đến “bờ vực” chiến tranh, nhưng chưa tới mức để chiến tranh nổ ra. Qua đó, có thể ràng buộc các nước lớn và từng bước hiện thực hóa mục đích Triều Tiên được công nhận là quốc gia có sở hữu vũ khí hạt nhân.
Nhà phân tích này thừa nhận rằng Trung Quốc cũng thường xuyên sử dụng chiến lược đe dọa để thực hiện mục đích của mình, nhưng thành quả thu được cho thấy cách làm của Bắc Kinh chưa đạt yêu cầu đề ra.
Phương thức đe dọa kinh điển của Trung Quốc thường là diễn tập quân sự, kết hợp với cảnh cáo mạnh mẽ về ngoại giao để uy hiếp đối thủ. Ngoài ra, duyệt binh cũng là một trong những phương thức đe dọa thường được Trung Quốc vận dụng.
Bắc Kinh hy vọng thông qua việc phô diễn các loại vũ khí tiên tiến cùng trang thiết bị hiện đại của mình để răn đe các đối thủ. Tuy nhiên, trên thực tế, phương thức đe dọa này của Trung Quốc với các nước như Hàn Quốc và Ấn Độ..., mọi chuyện gần như sẽ là vô ích.
Theo nhà phân tích Đặng Duật Văn, nguyên nhân chủ yếu nằm ở chính sự thiếu quyết tâm tới cùng của Trung Quốc. Điều này lặp đi lặp lại, và các đối thủ dễ dàng nắm được ý đồ của Trung Quốc, khiến cho phương thức đe dọa của Bắc Kinh không thành công.
Điển hình nhất là những gì diễn ra tại Doklam và vấn đề liên quan tới việc Seoul triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD). Nguyên nhân chính của hai lần thất bại này là Bắc Kinh “chỉ nói suông”.
Không chỉ vậy, xét về mặt khách quan, trong vài chục năm trở lại đây, Trung Quốc không tham gia bất kỳ cuộc chiến nào, bởi vậy sức mạnh chiến đấu cũng như uy lực của quân đội Trung Quốc là điều chưa được kiểm chứng. Do đó, những đe dọa của Trung Quốc không còn khiến nhiều quốc gia lo sợ, bởi họ cho rằng Bắc Kinh khó có thể dùng biện pháp quân sự để giải quyết các vấn đề phức tạp như tranh chấp chủ quyền lãnh thổ.


Hình ảnh "hoành tráng" của quân đội Trung Quốc được đăng tải trên trang web của Tân Hoa Xã ngày 30/7
Cũng theo nhà phân tích này, Trung Quốc thực sự sợ chiến tranh bởi hai nguyên nhân chính mà đầu tiên là do quân đội Trung Quốc nhiều thập kỷ qua chưa từng tham chiến, lại đang phải đối phó với tình trạng tham nhũng nghiêm trọng, bởi vậy khó có thể đảm bảo khả năng tác chiến của lực lượng này.
Nguyên nhân thứ hai là nội bộ Trung Quốc đang tồn tại nhiều vấn đề, trong khi họ lại phát triển theo con đường đối lập với nhiều quốc gia trên thế giới. Bắc Kinh lo ngại bị dư luận quy kết là kẻ hiếu chiến và hung hăng một khi sử dụng vũ lực uy hiếp đối phương.
Nhà phân tích này kết luận rằng để đảm bảo ảnh hướng và uy lực của những lời đe dọa, Trung Quốc cần thể hiện rõ quyết tâm của mình. Còn nếu thực sự không muốn dấn thân vào chiến tranh hoặc lo ngại nguy cơ thất bại, Trung Quốc không nên quá mạnh miệng hoặc có những hành động đe dọa dễ gây phản tác dụng như gần đây.



Sức mạnh thực sự của quân đội Trung Quốc vẫn chưa được kiểm chứng
Trên thực tế, sau khi Trung Quốc và Ấn Độ nhất trí cùng rút quân khỏi khu vực Doklam vào ngày 28/8, Trung Quốc tiếp tục đưa ra những tuyên bố “trịch thượng” và đầy đe dọa nhằm vào Ấn Độ.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh thì tuyên bố lính biên phòng Trung Quốc sẽ vẫn đóng quân tại Doklam và tiếp tục tuần tra khu vực này. Trong khi đó, người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Trung Quốc Ngô Khiêm khuyến cáo rằng Ấn Độ cần rút ra một số bài học từ vụ việc này.
Phó Giáo sư thuộc Đại học Quan hệ Quốc tế Trung Quốc Sở Oánh thậm chí còn tự tin cho rằng sau khi kết thúc vụ Doklam, Trung Quốc có thể thuyết phục người dân nước này rằng dựa vào sức mạnh nội lực quốc gia, Trung Quốc có khả năng sử dụng các biện pháp ngoại giao để “giải quyết các vấn đề biên giới và bảo vệ chủ quyền đất nước”.

Nguồn: Đất Việt

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét