Lê Anh Hùng | VOA | 15.11.2017
Không ai chọn được láng giềng,
nhưng ai cũng có quyền chọn cách chơi với láng giềng của mình.
“Quan hệ hữu nghị” Toracanxi - Hopantomola
Những
ai hâm mộ Aziz Nesin, nhà văn trào phúng nổi tiếng thế giới người Thổ Nhĩ Kỳ, hẳn
đều biết đến câu chuyện “Quan hệ
hữu nghị” của ông. Nội dung câu chuyện là về mối quan hệ giữa Toracanxi và
Hopantomola, hai quốc gia láng giềng có mối thâm thù với nhau và luôn trong
tình trạng sẵn sàng chiến tranh.
Căm
ghét và thù địch là cảm xúc chi phối những gì mà thủ tướng Toracanxi và quốc
vương Hopantomola cùng nội các của họ dành cho nhau. Thủ tướng Phoxica thì chỉ ước
ao làm sao tóm được “thằng súc sinh khốn nạn” Madragan IV để “moi gan hắn ra”,
còn vua Madragan IV thì thề sẽ lột da kẻ thù ngay lập tức nếu cái “thằng Phoxica
khốn kiếp” ấy rơi vào tay ông.
Tuy nhiên, đó là thái độ mà cả hai bên đều che dấu kỹ bên trong, và chỉ thoải mái bộc lộ giữa bốn bức tường của phòng họp nội các tại thủ đô mỗi nước. Còn bên ngoài, bộ ngoại giao hai nước vẫn dùng những mỹ từ cao đẹp nhất trên thế gian khi mô tả mối quan hệ của họ.
Tuy nhiên, đó là thái độ mà cả hai bên đều che dấu kỹ bên trong, và chỉ thoải mái bộc lộ giữa bốn bức tường của phòng họp nội các tại thủ đô mỗi nước. Còn bên ngoài, bộ ngoại giao hai nước vẫn dùng những mỹ từ cao đẹp nhất trên thế gian khi mô tả mối quan hệ của họ.
Hai
bên đều tận dụng mọi cơ hội, từ dịp sinh nhật đứa cháu nội quốc vương
Hopantomola cho đến sự kiện con trai út thủ tướng Toracanxi mọc răng, để trao
cho nhau những thông điệp ngoại giao thắm tình hữu nghị nhất có thể.
Tuy
nhiên, cứ sau mỗi bức điện, guồng máy chiến tranh của mỗi bên lại được nhấn
thêm một bước.
Và
cơn mưa những lời chúc tụng qua lại đó chỉ chấm dứt vào đúng “điểm nút” của câu
chuyện: lệnh tấn công kẻ thù của quốc vương Hopantomola chưa kịp triển khai thì
thủ tướng Phoxica đã chơi bài “tiên thủ hạ vi cường”, cho quân đội Toracanxi khai
hoả trước!
“Mối tình hữu nghị” Việt - Trung
Bề
ngoài thì mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng không khác “quan hệ hữu
nghị” giữa hai quốc gia Toracanxi và Hopantomola là mấy.
Trong
khi hàng ngàn năm qua, Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính dải đất
phương Nam hình chữ S thì hầu hết người Việt cũng coi quốc gia láng giềng
phương Bắc “vừa to xác, vừa xấu bụng” là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc. (Không
chỉ những lãnh tụ như Mao Trạch Đông hay Tập Cận Bình mới mang cuồng vọng bá chủ
thiên hạ, mà ngay cả đám du khách Tàu lếch thếch đến Việt Nam cũng đã coi dải đất
phương Nam này như là phần lãnh thổ mở rộng của họ.)
Tuy
nhiên, trên phương diện ngoại giao thì mọi chuyện lại khác.
“Sắc
thái chủ đạo” trong những “thông điệp ngoại giao” mà Toracanxi và Hopantomola gửi
cho nhau cũng được thể hiện trong các bản tuyên bố chung giữa Việt Nam và Trung
Quốc mỗi khi lãnh đạo cấp cao bên này sang thăm bên kia. Quan trọng hơn, bên cạnh
việc vạch ra phương hướng cho mối quan hệ giữa hai nước, các bản tuyên bố chung
Việt - Trung còn nêu lên những nội dung hợp tác cụ thể, nhằm hiện thực hoá
phương hướng quan hệ đó.
Cả
Toracanxi lẫn Hopantomola đều coi các thông điệp ngoại giao của đối phương là
vô giá trị, bởi không những hai bên đều “đi guốc trong bụng” nhau, mà điều cốt
yếu là nội các mỗi bên đều luôn đồng lòng coi phía bên kia là kẻ thù của dân tộc
mình.
Tương
tự, Bắc Kinh chưa bao giờ coi trọng những gì họ đã ký kết với Hà Nội, bởi cho
dù trong nội bộ họ có thể đấu đá tranh giành quyền lực một cách quyết liệt, thậm
chí một mất một còn, song một khi vấn đề Việt Nam được nêu ra thì giữa họ hầu
như không có sự khác biệt nào. Lý do thật đơn giản: họ cùng chia sẻ dòng máu “họ
Bành” vốn đã chảy trong huyết quản Hán tộc từ ngàn xưa đến nay.
Tuy
nhiên, về phần mình, Hà Nội lại không được như vậy. Trong khi hầu hết người Việt
đều nhìn về phương Bắc với ánh mắt đầy ngờ vực, cảnh giác thì trong ban lãnh đạo
CSVN lại luôn có những kẻ hoặc đã bị Trung Nam Hải kiểm soát, thao túng, hoặc đã
bị đồng Yuan làm cho mờ mắt. Vì thế, Hà Nội luôn bị chia rẽ trong chính sách đối
phó với Trung Quốc, kẻ luôn chực chờ cơ hội để nuốt chửng không chỉ toàn bộ Biển
Đông mà cả Việt Nam.
Trong
bối cảnh đó, các bản tuyên bố chung Việt - Trung không những hoàn toàn không phải
là mớ giấy lộn, mà ngược lại, còn tiềm ẩn những hiểm hoạ khôn lường với vận mệnh
dân tộc. Nó vốn dĩ đã nguy hiểm nếu người ký kết bị Bắc Kinh dắt mũi thì lại
càng nguy hiểm nếu người thực hiện bị đối phương khống chế, thao túng.
Và tình thế Việt Nam hiện nay
Kể
từ khi Nguyễn Văn Linh đưa Việt Nam vào quỹ đạo Đại Hán với câu phát ngôn bất hủ
“Dù bành trướng thế nào Trung Quốc cũng là một nước xã hội chủ nghĩa”, các đời
Tổng Bí thư của Đảng CSVN đều hoặc tự nguyện làm tay sai cho Bắc Kinh (Nguyễn
Văn Linh và Đỗ Mười) hoặc bị Trung Nam Hải khống chế, thao túng rồi biến thành
tay sai theo cách này hay cách khác (Lê Khả Phiêu, Nông
Đức Mạnh và Nguyễn
Phú Trọng).
Trong
hệ thống chính trị Việt Nam, mặc dù Tổng Bí thư là nhà lãnh đạo tối cao, nhưng
quyền hành pháp lại gần như nằm trọn trong tay Thủ tướng Chính phủ. Nghĩa là,
tuy trong mối quan hệ với Trung Quốc, Tổng Bí thư là người có tiếng nói quyết định
về đường lối, phương hướng, song việc triển khai đường lối, phương hướng đó,
cũng như việc hiện thực hoá những thoả thuận hợp tác cụ thể trong các bản tuyên
bố chung giữa lãnh đạo hai nước, lại chịu ảnh hưởng rất lớn, thậm chí trong nhiều
trường hợp là quyết định, bởi lập trường của người đứng đầu bộ máy hành pháp.
Nếu
các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì
có thể nói Việt Nam đã trở thành “một bộ phận không thể chối cãi của Trung Quốc”
từ lâu. Tuy nhiên trên thực tế, điều đó đã không xẩy ra, mà lý do chủ yếu là: ngoài
một số người trong ban lãnh đạo Việt Nam (Bộ Chính trị) không bị Bắc Kinh dắt
mũi, trong các đời thủ tướng kể từ sau Hội nghị Thành Đô đến nay (Võ Văn Kiệt,
Phan Văn Khải, Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Xuân Phúc – ít nhất là tới thời điểm
này) thì chỉ duy nhất Nguyễn
Tấn Dũng là bị Trung Nam Hải khống chế, thao túng. (Giai đoạn Nguyễn Tấn
Dũng làm Thủ tướng cũng là giai đoạn mà Việt
Nam bị “Hán hoá” nặng nề nhất, đặc biệt là trên
phương diện kinh tế.)
Điều
này giải thích tại sao mặc dù trong bản Tuyên
bố chung Việt - Trung ngày 3/12/2001 nhân chuyến thăm Trung Quốc của Nông Đức
Mạnh đã nêu rõ là hai bên “nhất trí sẽ tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp hợp
tác lâu dài trên dự án bauxite nhôm Đắc Nông”, nhưng cũng phải đến khi “đồng
chí X” lên thay Phan Văn Khải thì người đứng đầu chính phủ Việt Nam mới quả quyết
rằng việc khai thác bauxite tại Tây Nguyên là “chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước”, trong khi Nông Đức Mạnh vẫn là Tổng
Bí thư.
Sau
khi Chủ tịch nước Trần Đại Quang (thủ
lĩnh nhóm chống Tàu trong bộ máy kể từ giữa năm 2013 đến nay) bị thất thế
vì dính
líu đến vụ Trịnh Xuân Thanh đào thoát khỏi Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đã rộng đường hơn trong cuộc chạy đua đến ngôi vị số 1, song đồng thời ông
cũng chông chênh hơn trong cuộc chiến chống lại “nhóm lợi ích Tàu” trong bộ máy
do cặp
bài trùng Hoàng Trung Hải - Nguyễn Phú Trọng cầm đầu, với sự hậu thuẫn hết
mình của Bắc Kinh.
Hy
vọng là người đứng đầu chính phủ Việt Nam hiện nay sẽ
không “sập bẫy” vì tham vọng quyền lực của mình, để rồi chưa kịp hiện thực
hoá giấc mơ Tổng Bí thư thì đã trở thành con rối trong tay các ông chủ Trung
Nam Hải, những kẻ vốn là “bậc thầy” thiên hạ về mưu ma chước quỷ. Nếu điều đó xẩy
ra, đất nước sẽ lại đứng trước những hiểm hoạ khôn lường.
Lê Anh Hùng là một blogger/dịch
giả/nhà báo độc lập ở Hà Nội và là người đấu tranh vì tự do, dân chủ và nhân
quyền cho Việt Nam từ nhiều năm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét